Cái tên A$AP Rocky đã từng khiến tôi ngần ngại nghe thử nhạc của anh. Tôi cứ ngắm đi ngắm lại biểu tượng $ đó, nó nhìn giống mấy đồ bling bling to uỳnh đeo cổ, và gợi màu sáng loáng như mấy chiếc răng vàng của mấy rapper hay rap thứ nhạc lạ lạ mà tôi ít tìm hiểu. Cái tên đó cũng khiến tôi lầm tưởng A$AP Rocky là một mumble rapper - tôi không ghét mumble rap vì không nghe đủ nhiều để đánh giá, mà vì đã quá lâu rồi tôi bị lạc quẻ khỏi những gì đang tung hoành trên các bảng xếp hạng của nhạc Hip Hop.
Nhưng rồi những gì tôi nghe được từ các album của A$AP Rocky đã mở mang thêm một góc nhìn mới hay ho về anh rapper này và dòng chảy của nhạc Hip Hop gần đây. Nó không còn chỉ nằm ở mỗi flow, lời rap, mà còn cả cách chọn beat, âm sắc và xu thế.
Sự bắt nguồn của A$AP đến từ bí danh giành cho những ai tham gia trong nhóm A$AP Mob dưới sự lãnh đạo của A$AP Yams cũng là lý do khiến tôi bối rối giữa hàng loạt các thành viên với nghệ danh A$AP Ferg, A$AP Ant, A$AP Nast, A$AP Ty Beats, A$AP Bari, v.v. Đấy là chưa nói đến cái tên A$AP Rocky cũng đã na ná với một rapper khác Aesop Rock.
A$AP là từ viết tắt của “Always Strive And Prosper” (tạm dịch “Luôn Phấn đấu Và Phồn vinh” - LPVP). Có điều, nó không dừng ở ý nghĩa đó. Hơn thế, đó là ý đồ dùng chung một thương hiệu - một ý tưởng thông minh phi thường của cậu thủ lĩnh A$AP Yams.
Ở thời đại Internet phát triển như hiện nay, mạng xã hội và các phần mềm nghe nhạc trực tuyến vừa giúp dễ dàng tiếp cận tới người yêu nhạc, nhưng lại vừa là rào cản cho khả năng gây chú ý khi người nghe nhạc bị bão hoà với các lựa chọn của họ.
Thế rồi Steven “A$AP Yams” Rodriguez mới nghĩ ra cách gây dựng tên tuổi từ một account anh tạo ra trên mạng xã hội Tumblr. Là một kẻ với tình yêu nhạc Hip Hop ăn sâu trong máu, Yams sớm thu hút một lượng người theo dõi đáng kể nhờ các bài chia sẻ những hình ảnh các nghệ sĩ Hip Hop gạo cội, những lời phân tích nhận xét có phần đanh chát về chất lượng của các tác phẩm Hip Hop, các nghệ sĩ liên quan. Song song Yams ngấm ngầm xây dựng một đội ngũ anh em cùng chung chí hướng tại khu phố Harlem, New York. Và khi Rocky xuất hiện, tài năng và định hướng nghệ thuật phù hợp đã là bàn đạp để Yams bắt đầu kế hoạch của mình.
Ngay từ ngày đầu, anh đã khéo léo lăng xê Rocky cùng bí danh “A$AP”, để rồi sau đó hàng loạt các nghệ sĩ trong nhóm lần lượt gây chú ý trong mắt khán giả và các nhà phê bình nhờ chính thương hiệu A$AP đó.
Tôi không nghe nhiều mấy anh còn lại ngoài mấy album của A$AP Ferg và nhóm A$AP Mob - trong đó tôi rất thích album Always Strive And Prosper của Ferg. Có điều nhạc của Mob không thuộc gu của tôi vì những đoạn flow cụm 2- 3 từ một, lặp đi lặp lại từ, chậm đều đều, những câu autotune, đặc biệt trong album thứ hai của A$AP Mob. Biết là A$AP Rocky là một trong những thành viên chủ chốt của Mob, nhưng album solo của Rocky thì mang lại một cảm xúc ấn tượng tốt hơn rất nhiều.
Rocky - từ còn lại trong nghệ danh chính là nickname mà bà mẹ hay gọi anh do sự na ná về âm sắc với tên thật của cậu con trai - Rakim Athelaston Mayers. Không phải tự dưng Rocky có tên thật là Rakim và chị gái của anh lại tên là Erika, nếu không phải vì bố mẹ anh quá hâm mộ bộ đôi huyền thoại Eric B. & Rakim.
Rocky không hẳn/ chưa phải là một rapper siêu đẳng như Rakim, nhưng ít nhiều tài năng của anh trong nhạc Hip Hop thể hiện qua âm thanh đậm màu sắc, một cái “vibe” mà tôi nghĩ nó nằm ở cảm xúc khi thẩm nhạc của anh.
Ngay từ đĩa đầu, LONG.LIVE.A$AP (2013), trong track đầu tiên, bài “Long Live A$AP” có phần âm nhạc đầy chất phiêu, kèm sự đối lập về không gian âm thanh nghịch tai ở đoạn verse với sự lắng lại ở điệp khúc. Đến “Goldie”, giọng Rocky được chỉnh trầm xuống ở phần mở đầu khiến cho lúc anh rap giọng thật của anh sau đó nghe rất vào, nhất là trên nền beat quá đỉnh.
Beat nhạc Rocky chọn luôn chill và biến đổi, tạo dựng một không gian âm thanh như hiện rõ trước mặt người nghe, điều mà không phải album Hip Hop nào cũng mang lại được. Sự bay bổng ảo diệu đó đến từ phong cách Cloud Rap và Psychedelic. Khi Cloud Rap có phần bass nhẹ và lùng bùng rót thẳng vào tai thì Psychedelic tạo một cấu trúc bài phiêu dạt không theo lối truyền thống.
Trong bài “Pain”, tiếng Synth kéo dài với âm lượng to dần và nhoè đi. Để rồi sau đó được tăng sự cao trào bằng thứ âm thành trầm đặc và nhịp điệu nhanh hơn ở bài “Fuckin’ Problems”, với tiếng snare trống nghe rất hay. Tiếp đến bài “Wild For The Night” mang tới không khí dubstep và âm thanh điện tử. Hay bài “1Train” thì như nhạc một bộ phim.
Trong nhạc của Rocky, sự đối lập ở beat và flow giữa verse và câu hook luôn luôn là đặc sản hấp dẫn trong nhạc của anh. Nhiều lúc tôi nghĩ nhạc Hip Hop mà Rocky muốn tạo đều theo một hơi hướng của một bản soundtrack về các câu chuyện anh kể.
Ở album thứ hai AT.LONG.LAST.A$AP (2015), không khí soundtrack này còn sướng hơn nữa khi những bài như “Holy Ghost” có chèn cả những lời thoại, tiếng guitar điện chậm rãi và phần hát cuối bài mang cảm giác của miền viễn Tây. Bài “Canal St.” thì biến đổi instrumental liên tục, chỉ có đúng tiếng keyboard chậm rãi và double bass rất chill được chơi xuyên suốt cả bài.
Còn với Testing (2018), album thứ ba này cũng là cơ hội cho Rocky thể nghiệm nhiều không gian âm thanh và các “vibe” khác nhau. Album này cũng được coi là bước đi tự lập đầu tiên của Rocky từ khi thủ lĩnh A$AP Yams chết do sốc thuốc ở tuổi 26. Sự thể nghiệm trong âm thanh của Rocky đã tạo nên các bài Hip Hop đa dạng, với một số dấu ấn khó phai. Một ví dụ là bản track xuất sắc và phong cách - “Kids Turned Out Fine”, minh chứng cho gu nhạc đa dạng của Rocky khi những album mà anh ưa thích, ngoài thể loại Hip Hop ra, còn có Bad của Michael Jackson, Nevermind của Nirvana, Ultimate Experience của Jimi Hendrix, A Rush of Blood to the Head của Coldplay, Stadium Arcadium của Red Hot Chili Peppers.
Từ nãy đến giờ tôi mới chỉ khen các bản beat mà Rocky lựa chọn cho các album của anh. Nhạc Hip Hop của anh hấp dẫn được cũng chính nhờ công lớn ở phần lời chất lượng, gieo vần kỹ thuật, cùng các đoạn flow mượt mà, lúc nhanh lúc chậm, lúc rap lúc hát (mà lại hát khá hay) của Rocky.
Trong bài “Multiply”…
“Back in the buildin', sold crack in the livin' room / N****s toe-tagged, sold gats for a livin' / Doo rag, keep a red or blue flag in the denim / One you be with be the one to shoot at ya in a minute / Come to Harlem if you never seen Baghdad / First place I seen a n**** sell crack at / Where the hustlers don't sleep, take cat naps / Shorty with the shotty limpin' like he got a bad back, back back”
… các âm vần dài và dày tôi không đánh dấu đủ hết ở trên nhưng cũng đủ thấy kỹ thuật của Rocky tốt nhường nào, và vẫn lột tả được khung hình đầy ẩn dụ máu me bạo lực về mấy gã bán đồ cấm có thể bị giết bất kỳ lúc nào.
Với “Goldie”…
“So tell me what your name is, I'ma tell it to my stainless / You aim it 'fore you bang it let that banger leave you brainless”
… ngoài loạt âm vần “name is”, “stainless”, “aim it”, “bang it” và “brainless” chỉ trong 2 câu, cách chọn từ của Rocky rất khéo léo khi anh lặp được cả phụ âm bằng các từ “bang”, “banger”, “brainless” nghe vừa lọt tai, vừa tạo cảm giác như loạt súng nổ bang bang bên tai khi anh láy phụ âm “b” đó, thể hiện đúng tinh thần ý nghĩa của câu rap.
Còn “Canal St.”….
“I remember when I got a hundred for recordings / Now the sum of my performances just put me on the Forbes list / Fuck jiggy, I'm flawless, fuck pretty, I'm gorgeous / Your favorite rappers' corpsescouldn't measure my importance / My mind is out in orbits, plus my ego got endorsements / Heard the people want that raw shit, but y'all be talkin' bullshit”
…sau phần verse đầu thuật lại cuộc đời từ nghèo khó đến thành công, đến verse thứ hai, Rocky thể hiện được sự tự cao tự đại về bản thân bằng loạt câu ý nghĩa thâm sâu. Từ thời “chỉ kiếm được trăm đồng cho bản thu âm”, giờ các sản phẩm âm nhạc của Rocky đưa anh lên “danh sách của Forbes”. “Chất” đã là gì, khi Rocky “đỉnh của chóp”. “Đẹp” đã là gì khi anh “không tì vết”. Những rapper quá cố cũng không sánh được “tầm quan trọng” của Rocky. “Tâm trí” anh ở tầm vũ trụ, còn “bản ngã” anh ở đẳng cấp hơn người. Đoạn lời này cũng hợp lý với một rapper hay chơi thuốc ảo giác như Rocky.
Về flow - kỹ thuật tốt nhất của Rocky, nếu beat có chậm lại, chill hơn, nhiều khoảng lặng, không có nhịp trống, thì Rocky vẫn nghĩ ra lối thể hiện rất hợp lý, như bài “JD” chẳng hạn. Hoặc kiểu rap ngắt nghỉ không liền mạch, qua giọng điệu của Rocky, nó trở nên hay ho hơn rất nhiều, giống như với bài “Fukk Sleep” hoặc “Praise The Lord (Da Shine)”. Rồi cả khi Rocky hát từ đầu tới cuối bằng cả giọng thật lẫn giọng falsetto cùng autotune trong “L$D”, sự ảo diệu như liều thuốc LSD trong chất giọng của anh càng chứng minh sự toàn tài của tay rapper này.
Người ta nói A$AP Rocky có được ngày hôm nay phần lớn là nhờ sự dẫn dắt và định hướng của A$AP Yams. Về mặt PR lăng xê thì tôi nghĩ là đúng. Qua tài khoản Tumblr nhiều follower của Yams và tầm nhìn tốt với bộ nhóm Mob mà Yams kêu gọi được, thành công của thương hiệu “A$AP” là không thể chối bỏ. Nhưng về nhạc thì tôi vẫn cảm nhận thấy sự ảnh hưởng của Rocky không hề nhỏ trong hai album đầu tiên. Bởi vì trên các bản instrumental lạ và phức tạp luôn biến đổi ở các đĩa này, Rocky vẫn tự tin tạo ra phong cách thể hiện hoàn toàn phù hợp và làm chủ chúng.
Trong hai album đầu có thể mang hơi hướng một nửa “A$AP” (dưới tay đạo diễn của Yams) và một nửa “Rocky” nhưng đĩa thứ ba Testing thì toàn bộ “Rocky” này vẫn đứng vững. Đĩa Testing có thể khó tiếp nhận hơn chút với nhiều người vì bước đi mới của Rocky. Nhưng tôi lại đánh giá cao sự liều lĩnh trong các âm thanh thể nghiệm của anh ở album này, bởi chúng giống như những bộ trang phục mang tính phá cách trong thời trang mà anh rapper này được mọi người ca ngợi nhờ cái gu luôn đi trước thời đại.
Do vậy có thể cái tên “A$AP” mang tới thành công thương mại và danh vọng cho anh, nickname “Rocky” mà mẹ anh đặt có thể không đẳng cấp huyền thoại như một Rakim ngày nào, nhưng gộp lại nghệ danh này xứng đáng với sự đa tài của anh.
Hẹn gặp lại!
Kunt