top of page

Màn trở lại ngoạn mục của LL Cool J

Chúng tôi rất mê những màn thể hiện phong độ trở lại ngoạn mục của các nghệ sĩ huyền thoại sau một thời gian vắng bóng của một nhạc phẩm chất lượng cao. Những nghệ sĩ đó có thể có quãng thời gian sụt giảm phong độ hoặc gác đàn / gác mic để nghỉ xả hơi, thế nhưng bằng cách nào đó, họ lại tìm lại được thứ âm nhạc thể hiện đẳng cấp ngày nào khiến cho người nghe phải gật gù: “phong độ là nhất thời, đẳng cấp là mãi mãi” mà Sir Alex đã từng nói. Đối với ông Kcid, đó là album Patient Number 9 của Ozzy Osbourne; với Kai, đó là album Immortal của Michael Schenker Group; với Kroon, đó là album Fetch the Bolt Cutters của Fiona Apple; với Kink, đó là album Fear Inoculum của Tool.


Còn với tôi - Kunt, sau khi chưa hết ngỡ ngàng trước màn ghi điểm tuyệt đối của Nas qua hai bộ trilogy King’s Disease và Magic chỉ trong vòng có 3 năm, thì điều tôi không ngờ tới là một huyền thoại khác thuộc thế hệ trước cả Nas là LL Cool J lại có thể cho ra một album The Force (2024) mới đây hay đến như vậy. The Force không chỉ được phát hành sau nhạc phẩm liền trước đó của LL tới hơn 10 năm, mà nó còn mang một chất lượng ở đẳng cấp cao hơn hẳn những album có phần làng nhàng trước đó của anh. Tôi có cảm giác, tương tự như Nas, LL gần đây bỗng khơi gợi và nhóm bùng lên được ngọn lửa từng tôi luyện nên một trình rap bậc thầy vô đối. Điểm chung của hai người họ là những nhạc phẩm mới ra này không những thể hiện đẳng cấp về sáng tác lời rap đầy tính kỹ thuật, mà còn phần nào làm mới chính họ để tạo sự khác biệt với các nhạc phẩm trong quá khứ và âm nhạc đương đại. Và tương tự như Nas, khi mà các album kể trên của rapper này đều dưới sự dẫn dắt định hướng của producer Hit-Boy, thì album The Force của LL Cool J gần như hoàn toàn được sản xuất bởi Q-Tip (ngoại trừ đúng track cuối cùng).


Đệt, đây quả giống như một giấc mơ phải không Tip?” – Eminem nói như vậy với Q-Tip khi anh chuẩn bị thu âm phần rap đôi với LL trong bài “Murdergram Deux” ở album The Force. Đối với cả Tip và Em, được hợp tác cùng huyền thoại và thần tượng ngày bé của họ là một giấc mơ trở thành hiện thực mặc dù ba người họ đã là bạn của nhau suốt bao năm nay. Còn với LL, việc lựa chọn Tip để sản xuất cho album mới của anh quả đúng bắt nguồn từ một giấc chiêm bao.

 

Trước đó, LL đã vào studio để thu âm với Dr. Dre cho album mới của mình. Nhưng rồi dự án đó đã bị hủy vì anh tự cảm thấy phần thể hiện của mình trong album đó chưa đủ tầm mà LL kỳ vọng. Anh bèn xắn tay áo bắt đầu lại từ đầu. Album The Force vì thế là một nhạc phẩm mới hoàn toàn và cảm hứng của nó được khơi nguồn từ lần rapper quá cố Phife Dawg xuất hiện trong một giấc chiêm bao của LL và hỏi khịa anh xem dự án âm nhạc hợp tác với Dre đã đi tới đâu rồi. LL hẳn có chút mê tín trước việc linh hồn báo mộng nên ngay sáng hôm sau, anh gọi điện liền cho đồng đội của Phife trong nhóm A Tribe Called QuestQ-Tip, producer tài năng kiệt xuất mà LL ngưỡng mộ.

 

Nhìn tên người gọi, Tip đã nhanh chóng nhấc máy ngay khi tiếng chuông đầu tiêng vang lên. Và thế rồi LL kể hết cho Tip về giấc mơ của mình. 

 

-  “Vậy giờ ông anh muốn làm gì?” – Tip hỏi

-  “Anh muốn cùng chú làm một album nhạc” – LL đáp

-  “Triển thôi anh” – Tip trả lời không chút chần chừ.



Để làm ra được album The Force, bên cạnh việc LL Cool J qua hẳn studio tại nhà của Q-Tip để ngồi viết lời dựa trên các con beat điên rồ mà Tip sản xuất ra, anh còn ngồi “học lại” cách để rap. LL đón nhận mọi ý kiến góp ý, hướng dẫn trong lời rap từ phía Tip, và Tip cũng tiếp nhận những ý tưởng thể nghiệm âm thanh ở album này từ phía LL. Kết quả là The Force không chỉ dựng lại hai tượng đài cho những fan nhạc Hip Hop của thế hệ trẻ được chiêm ngưỡng, mà album này còn tạo sự gắn kết với âm nhạc đương đại qua chất nhạc điện tử nhưng được dựng với màu sắc rất kỳ dị bởi bàn tay ma thuật của Tip.

 

Đừng quên là Q-Tip đã từng cùng thành viên Ali Mohamad của A Tribe Called Quest để làm ra tuyệt tác The Low End Theory vào đầu thập niên 90. Trong phần production tối giản của 3 âm thanh chủ đạo – trống, bass và vocal, bằng cách nào đó, Tip và Ali vẫn có thể làm ra phần nhạc Hip Hop trộn lẫn với hương vị nhạc Jazz hoàn hảo từ dải âm trầm đến từ tiếng bass. Vậy nên lần này, mặc dù vẫn giữ chất liệu jazzy, Tip lại đi theo hướng âm thanh của đàn điện tử cũng như chơi các nhạc cụ sống để thử nghiệm những màu sắc khác lạ, điều có thể gây bất ngờ với fan nhạc Hip Hop, nhưng hoàn toàn có thể hiểu được ở một rapper kiêm producer có đôi tai âm nhạc nhạy bén và trình độ sản xuất nhạc đi trước thời đại như Tip.

 

Nhưng cũng đừng quên là nhân vật chính trong bài của chúng ta, James Todd Smith aka LL Cool J huyền thoại, chính là một trong những nghệ sĩ tiên phong tiêu biểu trong phòng trào New School của Hip Hop từ quãng thời gian những năm giữa thập niên 80. Single I Need A Beat phát hành năm 1984 khi LL mới 16 tuổi là một nhạc phẩm quan trọng thời kỳ này. Album Radio (1985) đầu tay của anh phát hành sau đó đã biến LL Cool J thành siêu sao nhạc Hip Hop đầu tiên. Đĩa nhạc này đánh dấu lối sản xuất album nhạc Hip Hop với thời lượng mỗi track ngắn hơn, phù hợp để được bật trên các kênh radio, cũng như âm nhạc và nội dung của đĩa được đồng nhất. Ngoài ra, có thể nói những con beat được Rick Rubin sản xuất mang phong cách tối giản ngày đó, với nhạc cụ thưa thớt nhưng từng cú nã trống snare đanh chát tiếng nào ra tiếng đó, rất hợp với năng lượng tràn đầy tự tin và giọng rap thô ráp nghe rất dã chiến của LL.



Sự nghiệp của LL Cool J sau đó tiếp tục để lại một số nhạc phẩm tạo dấu ấn lớn trong bộ discography của anh. Ví dụ như Bigger And Deffer (1987) tô rõ thêm hình ảnh đậm ngầu của một rapper viết lời trau chuốt tràn đầy tự mãn về vị thế và tầm ảnh hưởng của mình trong làng nhạc. Có điều là từ album thứ hai này, LL lại nhen nhóm giới thiệu một hình ảnh tay chơi lãng tử của mình qua một số track có bản beat mềm mại cùng với những câu hook giai điệu để phù hợp với mainstream hơn. Với cá nhân tôi, tương tự như trường hợp của Big Daddy Kane, những bản mang hình thái ballad như này khiến anh đánh mất đi cái uy trong flow rap vốn dĩ nghe rất cuốn hút của mình. Bên cạnh đó, không phải lần nào LL cũng tìm được “giọng rap” phù hợp của mình qua những album được làm mới bằng sự góp sức của nhiều producer khác nhau. Thế nên điểm lại cũng chỉ có album đầu tiên – Radio (1985), rồi Bigger And Deffer (1987), Mama Said Knock You Out (1990), 14 Shots To The Dome (1993) và G.O.A.T. (2000) là những nhạc phẩm mà tôi còn nghe lại của anh.

 


Thế nên, quay lại với album The Force (2024), LL Cool J đã tìm lại được chính mình khi anh có được sự gắn kết chặt chẽ với lối làm nhạc của một producer duy nhất, Q-Tip (nếu chúng ta tạm bỏ qua track cuối cùng “The Vow” do J-S.A.N.D. và Kizzo sản xuất), điều mà anh đã thể hiện rất rõ qua sự đồng nhất và đồng điệu ở số ít các album mà gần như toàn bộ được sản xuất bởi một producer (với RadioRick Rubin, với Bigger And DefferL.A. Posse, và với Mama Said Knock You OutMarley Marl).

 

Trong album The Force, không một khoảnh khắc nào LL thể hiện sự yếu mềm, thỏa hiệp trong âm nhạc của chính mình để mong nó phù hợp với mainstream (điều mà tôi đã rất thất vọng sau khi nghe album Set the Tone (Guns & Roses) phát hành cùng năm của Ghostface Killah với nửa đầu – Guns - siêu ngầu và nửa sau – Roses – siêu sến để nhắm tới đối tượng khán giả trẻ). Với The Force, LL tập trung cao độ cho những phần lời rap không một chút tiết chế và lối flow cực ngầu đầy uy lực, tạo ra một album thô ráp hơn tất cả những gì người ta từng nghe từ LL kể từ sau đĩa đầu tay – Radio. Nếu như nghệ danh “LL Cool J” mang nghĩa “Ladies Love Cool James”, thì trái ngược đó là cái tên album The FORCE được viết tắt của cụm từ “Frequencies Of Real Creative Energy”, mang đúng tinh thần “năng lượng sáng tạo” thực sự được truyền tới người nghe qua những “tần số” của các bài nhạc rap hay tuyệt vời.



Track mở đầu “Spirit of Cyrus” có sự tham gia của Snoop Dogg được dẫn dắt bằng bầu không khí tối tăm bởi tiếng đàn synth chủ đạo nghe đầy ma quái, điểm suyết bằng âm thanh guitar điện đục ngầu. LL sáng tác lời bài này với cảm hứng từ Christopher Dorner – một cảnh sát thuộc LAPD, người có nét hao hao giống anh, đến nỗi các sĩ quan phải gọi để khuyên LL ở ẩn trong nhà để tránh bị lực lượng SWAT bắn nhầm sau khi Dorner bị truy nã vì ra tay ám sát 4 người, trong đó có 2 viên cảnh sát đồng nghiệp khác mà Dorner tuyên bố là một màn trả thù vì sự phân biệt chủng tộc ngay trong chính lực lượng cảnh sát. Giống như Cyrus – nhân vật trong bộ phim The Warriors, LL bắt đầu lời rap từ góc nhìn của một nhân vật người hùng chống lại những đối xử bất công về sắc tộc và nạn bạo hành. Phần lời mà LL rap dù ở nhịp điệu từ tốn, nhưng từng từ từng chữ đều có trọng lượng của nó:

 

You promoted treason, you hold an evil allegiance / Guilty of malfeasance, you ignored my grievance / If you would have listened, it's your death that we would prevent / It would not have become a homicidal disagreement / We both know I'm right, but you label me an extremist / I'll stich you fuckers up and make the murder seamless / The killing's tailor made, l'm dressing up the demons / People don't believe you 'til the world is in upheaval / It's an ongoing saga, believe me, this is the prequel

 

Bên cạnh các âm vần được gieo kéo dài liên tục trong suốt nhiều khuông nhạc, cách LL chọn từ, ví dụ như “evil allegiance”, “malfeasance”, “homicidal disagreement”, “the killing’s tailor made” và “dressing up the demons” không bị quá phức tạp mà vẫn mang ý nghĩa như những nhát dao chém sắc lẹm.

 

Với nội dung phản ánh mặt trái của xã hội như “Spirit of Cyrus”, phần mở màn này của album khá là bất ngờ cho người nghe vì những bài rap về chủ đề chính trị của những nghệ sĩ cùng lứa với LL Cool J thường là những cái tên như Run-D.M.C.Public Enemy. Dĩ nhiên, LL trước đó đã có vài lần rap về chủ đề này như trong bài “Mr. President” ở album Exit 13 (2008) hay bản “#BlackLivesMatter Freestyle” (2020).

 

Sang tới track thứ hai mang cùng tên album “The Force” có phần lời sample từ bài “Don’t Stop ‘Til You Get Enough” của Michael Jackson, trên nền beat có tiếng synth âm sắc bẹt kéo dài một nốt như cứa vào tai, phải đến một quãng dài Q-Tip mới cho thêm âm thanh làm mềm dù tổng thể bản beat vẫn có độ ngang tai. Ấy thế mà Tip lại tạo ra một không gian tối mơ hồ cực hợp cho lối rap cao và giọng điệu hùng hổ đặc trưng từ những ngày đầu của LL Cool J. 

 

Trên những bảng màu lạnh, Tip cứ thế lần lượt “vẽ” ra các khung cảnh nền trừu tượng cùng những vệt màu nhấn ấn tượng qua những âm thanh và tiếng nhạc cụ khác lạ. Còn LL thì cứ thế “vẽ” thêm những nhân vật, vật thể để làm rõ hơn câu chuyện của từng tác phẩm. Trong “Black Code Suite” có tiếng synth nhấn lệch phách, LL rap về cuộc đời với sắc màu đen gốc Phi của anh qua những đoạn lời được viết ra cực tỉ mỉ: “And for cake, we be scrapin' until it’s late in the A.M. / When you sick of the mayhem, you demonstrate ’til they pay 'em / Your body swayin’, you listen what I'm sayin' / Don't want that AK-K-K commence to sprayin’ / OG Mind Freak, you cannot enslave 'em” ở verse 1 và kết thúc verse 2 bằng “I'm the knowin' that it's love and couldn't possibly be hate / I'm the prayer of a mom that want her son to walk straight / I'm the prisoner released when he walkin' out the gate, I'm Black / I'm Black, I'm Black, I'm Black, I'm Black” để rồi sau đó phần beat của Q-Tip được chuyển điệu hay tuyệt vời. Với album The Force, LL nhấn mạnh hơn sức mạnh không chỉ của âm nhạc Hip Hop, mà còn của niềm tự hào sắc tộc mà ít thấy anh trải lòng nhiều đến vậy như trong đĩa nhạc này.



Với đa phần chỉ 2 đoạn verse được LL viết cho mỗi track, nội dung của mỗi câu mỗi đoạn đều vừa đủ để chuyển tải thông điệp anh gửi gắm trong nhạc phẩm trở lại với sự nghiệp này. Do đó cũng không lạ gì khi ta sẽ tìm thấy những bài LL nâng cao vị thế huyền thoại của mình với thế hệ trẻ ngày nay. Trong bài “Praise Him” có tham gia của Nas, phần verse của LL sử dụng hình ảnh các vị chúa để tôn chính mình lên: “Build the truth, destroy in the booth / What I was born to do, decipher for you / Hey, Allah, what you wanna be when you're born? / What you really need to see is yourself in divine form / For the sake of equality, I'm fathering the song / Spirit of God, bring he and her along / They mistreat Islam, no justice performed / 'Til I'm crowned king, love, hell, right or wrong”.

 

Và đỉnh cao nữa là cách LL rap từ góc nhìn của một huyền thoại như vừa đội mồ sống dậy sau 3 thập kỷ ở bài “30 Decembers”: “It’s like I died and came back, different faces and ages / On their phones and computers, no one is readin' the papers / Don't know who's contagious, white lady look funny / This Black kid talkin' 'bout droppin' forty and twenty / Only thing on my mind, "You won't take nothin’ from me"”. Các hình ảnh đối lập của hiện tại và quá khứ, cùng những biến chuyển của nhạc Hip Hop càng thôi thúc LL đứng lên uy phong sừng sững để thế hệ mới hiểu và ôn lại lịch sử về những người đã góp tay gây dựng phát triển âm nhạc Hip Hop từ trước khi họ sinh ra đời. Sự lãng quên về lịch sử vẫn là một vấn đề nhức nhối trong dòng nhạc này, nhất là nếu đem so sánh với dòng nhạc Rock. “And these kids don't even know who I am / You don't know you in the presence of a real made man / You standin' too close, ain't nothin' sweet, no sugar, no glucose / Move for the bread and you toast”. Ở câu này, LL sử dụng hình ảnh ẩn dụ vừa để khẳng định khí chất thực của một MC như anh và vừa để phê phán những rapper thế hệ ngày nay với lối rap đơn giản, hời hợt được che đậy bằng hình thức và những yếu tố nghệ thuật tạo dựng bởi người khác.

 

Khoe tài và đẳng cấp vốn là chủ đề phổ biến trong nhạc Rap và LL đã từng sáng tác những track vô cùng chất lượng trong các album đầu tay, ví dụ như bài “Rock The Bells”, “I’m Bad”, “Mama Said Knock You Out” và “Eat Em Up L Chill”. Có điều sự hấp dẫn trong những bài ở album The Force vừa kể trên nằm ở cách LL làm mới câu chuyện anh kể cùng những phép ẩn dụ từ góc nhìn của một “con khủng long” lạc trong thế giới hiện đại.



Đến cả bài mang nét playboy sát gái của LL Cool J trong album The Force như “Proclivities”, lời rap của anh nghe cũng “cool” hơn nhờ phần beat kỳ quái mà Q-Tip sản xuất với âm thanh đàn synth đánh những hợp âm jazzy mơ hồ. Như đã nói ở trên, nhìn chung tôi không ưng phong cách “lady’s man” trong các bài rap của LL vì thường nó đi cùng với các con beat mang hình thái ballad, ngoại trừ một vài track như “The Do Wop” trong album Bigger And Deffer từ thuở đầu sự nghiệp. Thế nhưng trong “Proclivities”, ở tuổi ngoài ngũ tuần, LL rap bằng giọng điệu điềm đạm đầy kiêu hãnh của một người từng trải, đã đạt thành công trong tất cả những mảng nghệ thuật mà anh tham gia, không chỉ trong âm nhạc mà còn điện ảnh.

 

Hơn nữa, điều tôi nghĩ LL Cool J làm rất tốt trong nhạc phẩm mới này là trên những bản beat hay độc đáo nhưng lại khó nhằn của Q-Tip, LL không hề cố tỏ ra phô trương trình độ rap hay gieo vần của mình, mà anh viết lời hoàn toàn dựa trên cảm xúc từ phần nhạc. LL giống như một cầm thủ guitar bậc thầy có thể chơi những đoạn solo ở trình ngang với Jimi Hendrix, nhưng anh vẫn kìm lại chính mình để chơi các câu đàn rhythm và các hợp âm đơn giản với mục đích phục vụ cho bài nhạc. Đây là lý do mà cá nhân tôi thấy LL rap hợp nhạc hơn hẳn trong album The Force này, và ở track nhạc gần cuối “Murdergram Deux” (phần 2 của bài “Murdergram” nằm trong album Mama Said Knock You Out), trên bản beat có nhịp độ nhanh, anh lướt flow mượt mà, có âm sắc “dễ chịu” cho đôi tai hơn phần rap của Eminem.

 

Với The Force, LL Cool J đã làm một màn trở lại đầy ngoạn mục. Anh chứng minh cho mọi người thấy mình vẫn là một LL huyền thoại ngày nào – một MC có những lối flow, nhịp điệu đa dạng, một MC có uy lực và độ chiến trong ca từ và giọng điệu; nhưng nay nâng thêm tầm mới của một nghệ sĩ từng trải, một con người đã chứng kiến vô vàn những thay đổi của âm nhạc, của thị trường, của xã hội và của cuộc đời trải dài hơn nửa thế kỷ. Đó là lý do hai chữ cái “LL” ở trong cái tên “LL Cool J” không chỉ là viết tắt của nickname “Ladies Love Cool James” mà bà anh đặt cho ngày nào, mà nay chúng còn mang nghĩa “Living Legend” – “Một Huyền Thoại Sống”.



Hẹn gặp lại!

 

Kunt

123 views
bottom of page